Cập nhật ADA-2021
Nghiên
cứu GRADE: Thuốc ĐTĐ thứ 2 sau Metformin nên là thuốc gì
Nghiên
cứu GRADE, so sánh trực tiếp giữa bốn loại thuốc ĐTĐ thường được sử dụng cùng
với metformin, cho thấy liraglutide và insulin có thể giúp kiểm soát đường
huyết tốt hơn glimepiride và sitagliptin ở những người mắc bệnh ĐTĐ loại 2.
Thử
nghiệm giai đoạn 3 bao gồm 5047 người tham gia từ Hoa Kỳ với thời gian mắc bệnh
ĐTĐ typ 2 dưới 10 năm (trung bình 4,2 năm) và mức HbA1c là 6,8–8,5%. Các BN
được điều trị bằng metformin đơn trị liệu với liều ít nhất 500 mg/ngày, sau đó
tăng lên đến liều mục tiêu 2000 mg/ngày, với liều tối thiểu là 1000 mg / ngày.
Sau đó các BN được chỉ định ngẫu nhiên để nhận sulfonylurea glimepiride, thuốc
ức chế DPP-4 sitagliptin, GLP-1 RA Liraglutide hoặc insulin glargine, và vẫn
tiếp tục điều trị bằng metformin.
Kết
quả: tỷ lệ BN có HbA1c > 7,0% trong thời gian theo dõi trung bình khoảng 5
năm là thấp nhất trong nhóm insulin glargine và liraglutide (lần lượt là 67% và
68%), tiếp theo là nhóm glimepiride (72%), và cao nhất ở nhóm sitagliptin
(77%).
Tỷ
lệ mắc bất kỳ bệnh tim mạch (CV) nào - được định nghĩa là các biến cố tim mạch
bất lợi chính, nhập viện suy tim, đau thắt ngực không ổn định, cơn thiếu máu
cục bộ thoáng qua hoặc tái thông mạch - thấp nhất ở nhóm liraglutide và
glargine (5,8% và 7,6%. tương ứng), tiếp theo là nhóm glimepiride (8,0%) và
sitagliptin (8,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ các biến chứng vi mạch bao gồm bệnh thận
và bệnh đa dây thần kinh cảm giác xa là tương đương ở cả bốn nhóm nghiên cứu.
Các
điều tra viên của GRADE cảnh báo rằng việc xét xử các sự kiện CV chưa hoàn tất
vào thời điểm báo cáo, và do đó các phát hiện nên được coi là sơ bộ.
Trong
phân tích an toàn, tỷ lệ các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng có thể so sánh giữa
bốn nhóm, từ 33% với liraglutide đến 37% với glimepiride. Hạ đường huyết nghiêm
trọng xảy ra phổ biến hơn ở những BN tham gia được điều trị bằng glimepiride
(2,3%) so với các phương pháp điều trị khác (0,7-1,4%). Không có sự khác biệt
đáng kể giữa các nhóm về tỷ lệ viêm tụy hoặc ung thư tuyến tụy.
Nguồn:
TS.BS
Nguyễn Quang Bảy
Bộ
môn Nội tổng hợp - trường Đại học Y Hà Nội
Trưởng
khoa nội tiết - BV Bạch Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét